U Minh – Chương 104

Chương 104

Edit: Bạc Xỉu

Beta: Cá là Cá trong cá độ

Tháng tám, hoa quế nở rộ.

Cậu bước trên sương mai, ngắt cánh hoa quế, cẩn thận bỏ vào trong chậu sứ nhỏ, đôi mắt mở to ánh đầy vẻ mong chờ.

Mấy ngày nay, Tiểu Ngư cứ mãi buồn phiền vì tóc mọc thưa. Cậu nhớ ra một phương pháp dân gian nghe được từ mẹ, nếu gội đầu bằng cánh hoa quế mới nở vào buổi sớm thì tóc sẽ mọc dày hơn. Thế là suốt cả tháng tám, cậu chuyên cần dậy sớm, hái những cánh hoa quế mới nở không quản gió mưa.

“Công tử, trời còn chưa sáng, cậu lại đi hái hoa quế ạ.” Quản gia, người dậy sớm thứ hai trong phủ thị lang còn đang ngáp ngủ đã thấy công tử nâng gậy móc câu đi từ ngoài sân vào. Ông ta vội đi đến, khom người thỉnh an.

“Suỵt,” Cậu đưa tay ra dấu im lặng, đưa mắt nhìn cánh cửa gỗ chạm khắc hoa văn đóng chặt của sương phòng bên phải, khẽ nhắc: “Đừng đánh thức Tiểu Ngư tỷ tỷ. Tối qua tỷ ấy cứ than mình già rồi, tôi dỗ hai canh giờ tỷ ấy mới ngủ.”

Quản gia không khỏi buồn cười. Con nhóc mười tuổi tự chê mình già rồi bắt thằng nhóc bảy tuổi dỗ ngủ, bảo ông bác bốn mươi tuổi này chịu sao nổi đây.

Quản gia cúi người, lau đi vết sương thấm trên áo choàng nhỏ màu lục. Ông cũng thấp giọng: “Tiểu thư đưa công tử về phủ đúng là may mắn tiểu thư tu được từ kiếp trước.”

Cậu cười gượng, mang túi hoa quế vào nhà, rồi khẽ khàng đi đến bên giường đắp lại chăn cho Diêm Tiểu Ngư đang say giấc nồng. Tiếng trẻ thơ non nớt thốt lên như thầm thì: “Dù tỷ có là trọc đầu thì đệ cũng không chê.”

*

Tiết trời vào thu, cây cối úa vàng. Vì tùng bách mọc lên rậm rạp nên trong chùa Huyền Không vẫn xanh um, tươi tốt. Khi buổi tu tối kết thúc thì trời đã khuya. Trên đường về phòng thiền, cậu nhác thấy hai con sóc béo ôm quả thông vừa hái được chạy vội về tổ.

Cậu nhặt quả thông mà sóc nhỏ làm rơi lên, đôi mắt ươn ướt, thì thầm: “Tiểu Ngư, đã năm năm không gặp, chị có còn thao thao cả ngày đòi ăn quả thông không?” Cô thích nhất là quả thông mới hái, phải tách vỏ từng quả ra, chất thành đống mới nỡ ăn.

Đáp lại cậu là gió núi se lạnh.

Kể từ hôm ấy, ngày nào cậu cũng phải nhặt đầy một túi quả thông ở cốc Huyền Không rồi mới về phòng thiền nghỉ ngơi. Dần dà, những quả thông chất thành đã ngọn núi nhỏ trên bàn bát tiên trong phòng thiền.

Chú tiểu đồng môn hỏi, sao huynh nhặt nhiều quả thông thế.

Cậu đáp, mỗi ngày nhặt vài quả thông sẽ không còn nhớ cô ấy như thế nữa.

Chú tiểu nghiêm trang chắp tay: “A Di Đà Phật, sư phụ bảo, sư huynh đã vào cửa Phật, nên buông bỏ những chuyện phàm trần kia.”

Mắt cậu mở thao láo suốt đêm không ngủ. Hôm sau, cậu châm lửa đốt núi thông nhỏ, ánh lửa chiếu sáng đôi mắt, giọt lệ đắng chát chảy qua khóe môi.

Trăng sao lại luân chuyển qua vài năm. Cuối năm, trời giá buốt, gió đông lạnh lẽo thổi khắp cốc Huyền Không khiến các hòa thượng trong chùa gần như bị cảm lạnh hết. Cậu là người bệnh nặng nhất, sốt cao suốt mấy ngày mới khỏi.

Lúc mới khỏi sau hồi bệnh nặng, cậu xin trụ trì cho phép mình xuống núi, thăm viếng phủ thị lang cách đó mấy trăm dặm.

Trụ trì buông mi, lần chuỗi hạt trong tay. Lát sau, ông mới trả lời, mọi người trong phủ thị lang đều mạnh khỏe, cậu chỉ cần tiếp tục chuyên tâm tu hành là được.

Cậu mong cầu được về thăm vì trong lúc sốt cao, cậu mơ thấy Tiểu Ngư trưởng thành bị vây trong biển lửa, còn cậu đứng ngoài không cách nào di chuyển được, chỉ có thể trơ mắt nhìn ngọn lửa nuốt chửng lấy cô. Tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng, cậu bức thiết mong được gặp cô một lần xem cô có khỏe không.

Nghe sư phụ trụ trì báo rằng họ bình an, cậu cũng an tâm. Cậu ngửa đầu nhìn mây bay trên cao, cụm mây xếp lại trông giống khuôn mặt cô lúc vui cười, vẻ mặt cong cong, trong sáng vô ngần.

Cậu giơ tay lên đụng vào, trong khoảnh khắc, dáng hình đó đã biến mất. Mây vẫn hoàn mây.

Cậu cười tự giễu, rồi lần chuỗi hạt đi đến Phật đường.

Gió núi lướt nhẹ qua thung lũng, băng tuyết dần tan đi, xuân về trên đất mẹ. Cách chùa Huyền Không mười hai dặm có lang yêu quấy phá, sư trụ trì dẫn cậu theo thu phục yêu quái. Trên đường, trong lúc dùng trà ở một quán trọ vùng ngoại ô hoang vắng, cậu thoáng thấy ngoài cửa có một cô gái vội vàng chạy ngang qua.

Cậu cảm thấy dung mạo người nọ trông có vẻ quen mắt. Hẳn Tiểu Ngư cũng tầm tuổi ấy, cao tầm này. Cậu bước vội ra khỏi nhà trọ, nhưng cô gái kia đã không còn bóng dáng.

Ý xuân đương qua, sắc hạ ngập tràn, cuối cùng vận mệnh cũng để họ gặp nhau.

Nhiều năm không gặp, cô lại bị một con yêu tinh tằm bắt giữ, mang đến trước Phật đường chùa Huyền Không.

Trông cô mơ màng nằm co lại trong kén tằm, ấy thế mà vẫn nhận ra cậu. Cậu cũng chẳng ngờ cô còn nhớ lời thề khi bé.

Cậu đã từng hứa, chờ khi tóc dài chấm eo sẽ cưới cô làm vợ. Giờ đây, cậu đã sống bên Thanh Đăng Cổ Phật nhiều năm, cũng có giác ngộ kinh Phật nhờ chuyên tâm tu luyện, dần bỏ hồng trần lại phía sau, nhưng sự xuất hiện của cô đã quấy nhiễu lòng cậu .

Lúc cô bị giam trong phòng thiền chép kinh Phật, cậu từng ghé ngang, trộm nhìn cô.

Cậu nghe cô nói với trụ trì: Tấm lòng tôi trao Nhai đệ đệ chẳng sinh chẳng diệt, chữ ái tôi trao Nhai đệ đệ chẳng nhơ chẳng sạch, cái tình tôi trao Nhai đệ đệ chẳng thêm chẳng bớt.

Cậu chỉ thấy, cô thấu hiểu Phật ngữ theo một cách rất khác. Kinh Phật qua miệng cô lại đượm một nỗi tâm tình, lời thốt ra vô cùng bùi tai, có chút ngòn ngọt và cảm giác rung động như chạm vào trái tim mà tiếng Phạn cũng không thể sánh bằng.

Cậu gọi cô là thí chủ, cố gắng cách xa, nhưng thực ra chỉ là cậu tự nói cho mình nghe.

Cậu biết trái tim mình đã dao động. Dáng cười xán lạn như bông hoa mùa hạ kia cậu vươn tay là có thể với lấy, hương quế thoảng giữa làn tóc mây vẫn ngọt ngào, ấm áp như thuở nhỏ. Người cậu giữ trong lòng, người cậu mong nhớ đã lâu giờ ở ngay trước mắt, chỉ cách nhau một cái quay đầu.

Cất giấu trong câu A Di Đà Phật là một chớm lòng xuân.

Thấy cô cố chấp như thế, lòng cậu đau như dao cắt, lâm vào thế khó.

Cậu ngồi bất động trong Phật đường ba ngày mong tìm được đáp án. Tiếp tục tu Phật hay làm tròn lời ước hẹn thuở bé, yêu một người hay yêu thiên hạ, mà một người với thiên hạ thì có gì khác nhau…

Dưới bức tượng Phật bằng vàng, cậu bói một quẻ đầu tiên trong đời. Gieo quẻ nhân duyên ba lần, cả ba lần đều là quẻ hạ hạ. Cậu không ngại bày trận Phật thiêm để nhìn trộm thiên cơ, đoán được nạn tử.

Nạn tử của cô chính là cậu. Một khi cả hai quấn quýt lấy nhau sẽ vì ly biệt mà sinh lòng oán hận, khổ đau cả đời.

Muốn phá giải kiếp nạn này chỉ còn cách đoạn tuyệt.

Tháng chạp, tuyết trắng rơi lả tả, dòng suối bên cửa khe núi đóng tầng băng mỏng. Căn nhà gỗ nhỏ cô dựng trước lối vào cũng phủ một lớp băng trong suốt. Vào ban ngày khi đi ngang qua, cậu thấy cô giặt quần áo bên dòng sông giá buốt. Nhân lúc cô đi mua dược liệu trong chùa, cậu cố ý lặng lẽ bỏ thêm cao chống nẻ vào chỗ quần áo Thiển Cô mang đến.

Một chiếc đèn hoa sen được treo lên trước cửa căn nhà gỗ. Cứ vào đêm, từ Tứ Không môn, cậu lại trông thấy một chấm đỏ xa xa. Cậu đứng nhìn nó suốt mấy năm, chấm đỏ lờ mờ tựa như nốt chu sa bỏng cháy trong lòng cậu.

Những khi gió thổi mạnh làm tắt đèn, cậu sẽ lặng lẽ xuống núi đổ thêm dầu. Theo thời gian, đôi khi đèn hoa bị thủng vài lỗ, cậu âm thầm mang đèn về Tứ Không môn tỉ mẩn vá lại rồi lặng im treo về.

Mùa xuân năm đó, tiết trời ẩm ướt kéo dài, người dân quanh núi lũ lượt nổi mẩn đỏ. Cậu ghé qua lối vào núi, đã mấy ngày rồi chưa thấy cô ra ngoài, ngay cả quần áo phơi trong sân cũng không thấy ai rút vào nhà.

Hai sư thầy trẻ tuổi ho sù sụ bước ngang qua, vái tay chào rồi lại dần đi xa. Trong giây lát, cậu cảm thấy có chuyện gì đó không ổn, lập tức mở cửa gỗ ra.

Trên chiếc giường giản đơn, cô đã ốm sốt mơ màng, cổ họng ho khản tiếng, trên cổ và hai gò má nổi chi chít mẩn đỏ.

Cậu lấy máu làm thuốc rồi đút từng thìa cho cô đang hôn mê.

Sáng sớm hôm sau, cậu vờ như vô tình ghé ngang, thấy cô đang tưới nước trong vườn rau, trông như đã khỏi bệnh thì cậu mới trở về chùa.

Năm năm thấm thoắt trôi, lại một buổi cuối thu, một cơn gió độc thổi bên ngoài Tứ Không môn. Cậu đang ngồi trong phòng thiền tụng kinh thì chuỗi hạt trong tay bỗng lóe sáng khiến lòng cậu hốt hoảng.

Cậu thoắt biến đến cửa khe núi, thấy đèn hoa treo ngoài nhà gỗ đã tắt. Cậu chợt đẩy cửa phòng, quả nhiên thấy một con xà tinh đang ngoác miệng định nuốt người con gái đang ngủ vào bụng.

Một tia sáng vàng bắn ra từ trong tay cậu, xà tinh gào lên đau đớn làm người đang say giấc bừng tỉnh.

Cô núp vào góc giường nhìn cậu trong bộ đồ đơn sơ đánh con yêu quái đầu người mình rắn về nguyên hình. Cậu bước lại gần giường gỗ, cô nhào vào lòng cậu, chẳng nói gì, khẽ khóc nấc lên từng cơn.

Cậu để mặc cho cô ôm mình. Thấy người trong ngực run rẩy dữ hơn, cậu nhẹ nhàng vuốt đầu cô: “Đừng sợ, con xà tinh này sẽ không đến nữa đâu. Tôi sẽ bảo vệ cô.”

Cô ôm chặt lấy cậu, gật đầu.

Cậu đỡ cô nằm xuống, vuốt ve khuôn mặt hơi lạnh của cô rồi vung tay lên, cô lại chìm vào giấc ngủ say.

Cậu đứng dậy, dọn dẹp lại phòng, xóa đi dấu vết đánh nhau.

“Ngày mai thức giấc, cứ coi đây chỉ là một giấc mộng.”

Thời gian thấm thoắt thoi đưa. Cuối cùng, lòng cô cũng hoàn toàn thất vọng, định rời đi.

Khoảnh khắc nhìn bóng lưng gầy gò, yếu ớt của cô bước từng bước xuống núi dọc theo thềm đá, y bỗng thấy biết ơn vận mệnh.

Dù tuổi xuân đã hao mòn nhưng y đã xoay chuyển được nạn tử của cô. Chỉ cần cô còn sống thì dù cả đời này không thể gặp nhau nữa, y cũng mãn nguyện.

Rau quả trong vườn cô bỏ lại lại thêm một mùa bội thu. Y bảo các tăng nhân mang trái cây về chùa miếu, sau đó vào nhà một mình. Y quét dọn giường chiếu, đồ đạc rồi nhìn chăm chú vào gương đồng cô từng dùng. Y nghĩ bụng, đã hai năm trôi qua, hẳn là cô sống rất tốt ở phủ thị lang. Chẳng có gì tệ hơn việc sống cạnh y cả.

Nhưng số phận lại khéo trêu đùa con người.

Y chẳng ngờ hai người sẽ có ngày trùng phùng. Một tờ thánh chỉ bắt yêu đã khiến vận mệnh hai người lại quấn vào nhau.

Hóa ra phủ họ Diêm gặp nạn, chỉ còn cô lẻ loi một mình, cuộc sống không hề tốt.

Tại phủ họ Diêm, lúc dọn dẹp lại căn phòng cô sống khi bé, y nhặt một chiếc lược gỗ khắc đầu phượng. Răng lược dính đầy bụi bặm, còn giăng tơ nhện. Cô đã vứt nó đi.

Y tỉ mỉ lau sạch cây lược gỗ, lần nữa đặt nó vào trong ngực.

Y thông minh như thế nên đã đoán được yêu ma trong thành là ai từ lâu, nhưng vẫn mãi không chịu xuống tay. Thậm chí vào thời khắc quan trọng, y còn không màng tiêu tan đạo hạnh nửa đời để cứu Thiển Cô.

Y nói: “Bần tăng dùng cả đời bảo vệ cô ấy bình an. Nếu có ngày bần tăng không bảo vệ cô ấy được nữa, mong bà hãy chăm nom cô ấy. Từ nhỏ, cô ấy đã không biết cách tự chăm sóc bản thân, bần tăng không yên lòng.”

Vào hoàng thành một chuyến, cô trở về với cát bụi, còn y bị sa vào tâm ma.

Lúc đó, y mới rõ, y một lòng giúp cô thoát khỏi nạn tử, nhưng đồng thời, cô cũng là kiếp nạn không thể trốn thoát của y.

Tiên, phật muốn thăng chức phải vượt qua một đại kiếp. Độ được kiếp nạn thì lên chức, không độ được thì hoặc tu vi tan hết, hoặc tan thành cát bụi.

Phật Tổ từ bi đã đoán trước được kiếp nạn này của học trò, bèn hóa một hạt Phật châu từ chuỗi hạt trong bàn tay thành sư trụ trì để chuyển thế, độ kiếp cùng y. Tiếc thay, sư trụ trì đã dùng cách sát sinh, không giải được kiếp nạn y.

Tất thảy đều là nhân quả, là chấp niệm, là do trời định.

Lúc dọn dẹp di vật ở Tứ Không môn, chúng tăng chùa Huyền Không tìm thấy một bức di thư.

Bức thư căn dặn chúng tăng phải trông nom căn nhà gỗ nhỏ ở lối vào cốc, đừng để mưa gió làm nó mục nát, đừng để dã thú phá hỏng.

Còn chuyện vì sao lại dặn dò chúng tăng bảo vệ cẩn thận căn nhà đó, lúc còn sống, Trì Tiên nghĩ gì, không một ai biết.

Có lẽ y nghĩ rằng nếu Tiểu Ngư Thất trưởng thành đi lễ Phật trên chùa Huyền Không, căn nhà gỗ kia có thể cho cô một chỗ nghỉ chân. Còn ngọn đèn hoa sen vẫn luôn ở đó, được y cất tại nơi không ai trông thấy.

Trên đời này có một kiểu tình yêu, người nọ chưa từng mở lời thổ lộ, bạn cũng sẽ chẳng bao giờ hay biết.

——-

Tiệm cầm đồ U Minh.

Trong bàn thờ nhỏ tại phòng Đồng Cơ đặt một pho tượng Phật. Như mọi khi, trước bàn thờ vẫn không có bất kì đồ cúng, nén hương nào, chỉ đặt một ngọn đèn dầu đã cũ nhưng lại chẳng thấy bấc đèn.

Thu Mộ thấy Đồng Cơ cả ngày không ra khỏi phòng, bèn bưng thức ăn tới gõ cửa trong sự tò mò.

Trong căn phòng tối mờ, Đồng Cơ vô cùng chăm chú nhìn vào bàn thờ. Ánh mắt cô vừa như đang quan sát tượng Phật nhỏ lấp lánh ánh vàng, vừa như đăm đăm vào ngọn đèn dầu trước tượng.

“Đồng Cơ tỷ tỷ, tỷ đã đứng trước pho tượng này suốt một ngày một đêm rồi. Tỷ có tâm sự gì chăng?” Thu Mộ đặt mâm thức ăn xuống.

Đồng Cơ cười: “Tôi có tâm sự gì đâu, tôi còn đang vui đây.”

“Sao tỷ lại vui thế?”

Đồng Cơ cười tươi hơn, nói với tượng Phật: “Tôi cược thắng rồi. Cho dù là Phật Tổ cũng có lòng riêng. Nhưng đáng tiếc, ngay cả Phật Tổ cũng không thể ngăn cản vòng xoay của vận mệnh. Ngọn đèn trường sinh này đã tắt.”

“Đèn trường sinh?” Hai mắt Thu Mộ mở lớn, hơi ghé sát vào, xem xét chiếc đèn cũ chẳng mấy bắt mắt trên bàn thờ: “Đây là một trong những thần khí Thượng Cổ, đèn trường sinh ư?”

Đồng Cơ khẽ búng tay, dạ minh châu trải khắp cả căn phòng, sáng rực như muốn tỏ ý chúc mừng.

“Nhưng sao tôi không thấy bấc đèn của nó đâu?” Thu Mộ thắc mắc. Trước kia, tuy ngọn đèn tưởng như tầm thường này không hề thắp sáng nhưng bấc đèn vẫn còn đó.

Đồng Cơ thèm ăn, cô bê mâm cơm đến cạnh bàn gỗ dài. Khi đi ngang qua Thu Mộ, cô nhướng mày: “Cô đoán xem.”

*

Tác giả có lời muốn nói:

Quyển sau là câu chuyện về Tiêu Hận Thủy, không có nữ chính. Tiêu Hận Thủy chính là con quỷ nhiều lần bị chặn ngoài cửa tiệm cầm đồ U Minh ở chương 2 đó, các bác còn nhớ không? Chắc chắn là các bác không nhớ rồi!

Hết Quyển 4

Bình luận về bài viết này